hệ quả là đa số những nhỏ nghiện nay đa số bị sâu răng, viêm lan truyền nướu nặng sau một thời gian "đập đá".tóm lại, áp dụng ma túy đá cho dù ít cũng dễ khiến nghiện, lúc nghiện tại thì nặng nề cai cùng tạo ra đều tai hại rất lớn về sức khoẻ như: xôn xao tinh thần, gây ra hoang tưởng giỏi ảo giác, có các hội chứng như teo lag, động tởm, nghiêm … Nhiều chuyên gia lý giải về khía cạnh này, lý giải về hiện tượng ham muốn tình dục cao khi con nghiện sử dụng "đập đá", theo đó, đối với những người dùng thuốc lắc, việc va chạm thể xác được họ cảm nhận một cách mơ hồ, không rõ ràng, chính vì thế gần như Đập đá có gây nghiện không. admin 22/09/2022. Ma túy đá là một trong những dạng ma túy tổng hòa hợp được phân phối từ ephedrine, một hóa học có trong những thuốc chữa bệnh dịch ho cùng thuốc làm giảm cân. Bạn đang xem: Đập đá có gây nghiện không. Năm ngoái, dư luận Đập đá sẽ đem lại cho người sử dụng rơi vào một tráng thái ảo giác do mình tưởng tượng ra, có thể là cảm thấy phê, nhiều người có thể thấy mình tập trung tốt hơn nhưng thực tế, ma túy đá không có tác dụng gây hưng phấn nào cả, thuần túy do người sử dụng mang sẳn ảo tưởng gắn vào cho nó. TPO - Sau gần 50 năm vận hành, nhiều hạng mục tại hồ Kẻ Gỗ như thân đập, cửa van hay tràn xả lũ…đã xuống cấp, ảnh hưởng đến quá trình khai thác và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn trong mùa lũ. Năm 1976, hồ chứa nước Kẻ Gỗ ở xã Cẩm Mỹ (huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh Fast Money. Hỏi 3 chàng trai đang điều trị ở Viện Sức khỏe tâm thần BV Bạch Mai, Hà Nội vì chơi "đập đá" thì cả 3 đều mơ hồ nói món này không gây nghiện. Thực tế, "đập đá" là một dạng ma túy tổng hợp khiến người chơi bị "phê" cực mạnh, dễ hóa tâm thần. Trong phòng bệnh số 18 - Viện Sức khỏe tâm thần có một cậu bé với khuôn mặt vô hồn, đôi mắt lờ đờ lảng tránh mọi ánh nhìn. Mặc cho người nhà vuốt ve, cậu vùng lên chống đối. Ít ai biết, cậu mới chỉ là học sinh lớp 10, phải nhập viện vì sử dụng ma túy đá. Cậu tên Quang Anh, 17 tuổi ở Quốc Oai, Hà Nội. Vì chơi với một đám bạn hơn tuổi, không học hành, cậu bị lôi kéo vào thú chơi "bồ đá", hay còn gọi là "đập đá", "ma túy đá". Khi chơi, Quang Anh không biết đó là ma túy. PGS Trần Hữu Bình - Nguyên Viện trưởng Viện sức khỏe tâm thần Bệnh viện Bạch Mai đến thăm bệnh nhân Quang Anh. Ông khẳng định đập đá cũng như tất cả các loại ma túy tổng hợp khác đều tác động lên hệ thần kinh và gây nghiện. Ảnh Phan của Quang Anh đã vào một phòng trọ sinh viên, chơi "đập đá" gián tiếp qua một chai C2. Cũng theo Quang Anh tiết lộ thì ngoài cậu đang là học sinh, vẫn còn một cô bạn cùng trường tham gia vào trò thác loạn này. Cậu kể “Lúc đập đá’ em thấy mình như anh hùng, siêu nhân, cơ thể được bay trên mây, nhẹ nhàng, khoan khoái lắm. Nhưng chỉ sau 2 lần chơi, em mệt mỏi, không ăn uống, trong lòng luôn lo lắng, cảm giác như có tiếng nói bên tai”. Quang Anh cố vùng khỏi giường, nói với bố mẹ không biết bị cho hút thứ gì mà bây giờ cậu bứt rứt, khó chịu trong người. Tìm hiểu nhiều nơi, bố Quang Anh lo sợ biết được con mình đã sử dụng ma túy đá. “Tôi cho cháu nghỉ học, nhốt cháu trong nhà để ổn định tâm lý. Nhưng đến cả tháng mà chứng hoang tưởng, cảm giác như có người đang đuổi giết vẫn hành hạ cháu. Tôi đành cho cháu nhập viện tâm thần”, bố Quang Anh cho biết. Khác với vẻ hiền lành của Quang Anh thì Kiên Cẩm Giàng, Hải Dương lại có vẻ bặm trợn. Trên bắp tay, bắp chân cậu in vài hình xăm kinh dị. Kiên nói chắc nịch “Đập đá có nghiện đâu mà ông bà già nhà tôi cứ bắt phải đi cai rồi nhốt tôi vào viện tâm thần”. Kiên mới qua tuổi 20, học hành dở dang nhưng đã có vợ. Vì sử dụng ma túy đá mà giờ đây cậu trông như bị "đần", nói nhiều, luôn miệng lảm nhảm và di chuyển nặng nề. Chiều chiều, gia đình cho cậu ra sân tập thể dục. Kiên chật vật đá cầu được vài đường rồi hùng hổ đi khắp các hành lang làm loạn. Theo tiết lộ của bác sĩ điều trị cho Kiên thì vì “đập đá” mà Kiên có ham muốn tình dục ghê gớm. Một ngày cậu bắt vợ quan hệ hơn …20 lần. Kết quả âm đạo của vợ bị bỏng, phồng rộp. Không chịu được nhu cầu quái đản này, vợ cậu phải cầu cứu bố mẹ chồng. Gia đình cậu bị sốc nặng, quyết định cho Kiên nhập viện tâm thần. Trao đổi với PGS Trần Hữu Bình - Nguyên Viện trưởng viện sức khỏe tâm thần Bệnh viện Bạch Mai cho biết “Đập đá là một từ lóng mà xã hội thường gọi thay cho chất ecstasy - một chất nằm trong tổ hợp các chất gây nghiện ATS hay còn gọi là ma túy tổng hợp”. “Đập đá”, "chấm đá", "bồ đá" đều là tên gọi của ma túy đá - xuất hiện ở nước ta từ năm 2006. Theo tổng kết của các cơ quan điều tra, loại ma túy này thường được sử dụng ở các quán bar, vũ trường, sau đó là các nhóm tự mua và sử dụng trong nhà nghỉ. Ngoài tác động mạnh lên hệ thần kinh, làm người chơi "phê" trong vài ngày thì người dùng nó còn nảy sinh ham muốn tình dục. Bởi vậy, nhiều nhóm cùng "đập đá" rồi quan hệ tình dục tập thể. Trước suy nghĩ của một bộ phận không nhỏ cho rằng đập đá không gây nghiện, bác sĩ Bình lý giải “Ma túy tổng hợp bao gồm cả đập đá được dùng để điều trị các bệnh hen phế quản, xung huyết mùi, béo phì, rối loạn tăng đồng giảm chú ý, trầm cảm…Nếu dùng một liều nhỏ không thường xuyên nó sẽ mang lại cảm giác khoan khoái, dễ chịu, cảm giác nhẹ nhàng như bay… Nhưng nếu sử dụng chất này cũng một liều nhỏ nhưng thường xuyên thì sẽ gây rối loạn thần kinh thực vật với các biểu hiện như ra mồ hôi, tăng huyết áp, đau đầu, nói năng nhiều… Khi sử dụng với liều cao hơn thì có thể bị ngộ độc, nôn, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não. Nghiêm trọng hơn là thần kinh bị rối loạn hoang tưởng, dễ bùng nổ. Nếu ngưng sử dụng trong vòng 24 đến 48 giờ thì người đó sẽ có hội chứng cai mà biểu hiện cao nhất là trầm cảm, có ý tưởng hành vi tự sát. Rõ ràng, đập đá gây nghiện và có sức phá hủy con người rất nhanh. "Tuy ma túy đá mới xuất hiện ở nước ta từ năm 2006 nhưng có tốc độ lan tràn rất nhanh, nhất là trong giới trẻ. Một số lớn học sinh, sinh viên sử dụng các chất ecstasy, con số này không ngừng tăng lên. Hầu hết bệnh nhân vào viện chúng tôi đều là học sinh, sinh viên bị rối loạn tâm thần do đập đá", bác sĩ Trần Hữu Bình nhấn mạnh thêm. Sở dĩ “đập đá” đang là một trào lưu trong giới trẻ vì nó làm phê mạnh, khoái cảm, mang lại ảo giác không có thực. Giá cả của nó lại cực đắt. Chính vì vậy nó thường là thước đo “đẳng cấp dân chơi”. Năm 2011, lực lượng chức năng đã thu giữ khoảng 40 kg ma túy dạng đá trên cả nước. Riêng tại TP Hà Nội đã phát hiện và thu hơn 12 kg. Công an cũng phát hiện nhiều trường hợp buôn bán, vận chuyển ma túy Five có xuất xứ từ Nhật - là một dạng ma túy tổng hợp sử dụng chung với ma túy dạng đá, thuốc lắc có chức năng kích dục rất mạnh. Người sử dụng loại ma túy này có thể không ăn, không ngủ trong vài ngày, quan hệ tình dục tới kiệt sức, có thể dẫn tới tử vong. * Tên nhân vật đã được thay đổi Phan Dương Những bài ca dao - tục ngữ về "Đập Đá" Muốn ăn đi xuống Muốn ăn đi xuống Muốn uống đi lên Dạo khắp bốn bên Chợ Thành, chợ Giã Chợ Dinh bán chả Chợ Huyện bán nem Dị bản Muốn ăn đi xuống, Muốn uống đi lên Quán Ngỗng, Gò Chim, Cầu Chàm, Đập Đá Vũng Nồm nhiều cá, Vũng Bấc nhiều tôm Chợ chiều bán cơm, Chợ mai bán gạo. Ai về ập á quê cha Ai về ập á quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú Gia quê nàng Dị bản Em về ập á quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú a quê chàng Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá Ngó về Đập Đá, phố xá nghinh ngang Từ ngày Tây lại sứ sang Cầu Trường Tiền khác bến, chợ Đình Ngang đổi dời Ới em ơi, em ăn ở làm cho có đất có trời Đừng ham duyên mới phụ lời nước non Dị bản Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá Ngó về Đập Đá, phố xá nghinh ngang Từ ngày Tây lại sứ sang Đi xâu, nộp thuế, làm đàng không ngơi. Anh về ập á đưa đò Anh về ập á đưa đò, Trước đưa quan khách, sau dò ý em Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá Đò từ Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình Lờ đờ bóng ngả trăng chênh Tiếng hò xa vọng, nhắn tình nước non Nước Đông Ba chảy qua Đập Đá Nước Đông Ba chảy qua Đập Đá Nước Vĩ Dạ chảy xuống ao hồ Em chưa có chồng thì nói việc đế đô Có chồng rồi thì khác chi trâu dại, bạ chỗ mô cũng cà Anh nguyền cùng em Chợ Giã cho chí cầu Đôi Anh nguyền cùng em Chợ Giã cho chí cầu Đôi Nguyền lên Cây Cốc, vạn Gò Bồi giao long Anh nguyền cùng em thành Cựu cho chí thành Tân Cầu Chàm, Đập Đá, giao lân kết nguyền Trung Dinh, Trung Thuận cho chí Trung Liên Trung Định, Trung Lý cũng nguyền giao ca Anh về Đập Đá, Gò Găng Anh về Đập Đá, Gò Găng Để em kéo vải sáng trăng một mình Dị bản Anh về Đập Đá, Gò Găng Cùng em kéo sợi dưới trăng chung tình Chợ Gò Chàm Tên một phiên chợ ở Bình Định. Trước đây chợ ở cách thị trấn Bình Định khoảng hai cây số về phía Bắc. Vùng này có tên là xứ Lam Kiều vì trồng nhiều cây chàm để nhuộm vải, vì vậy chợ có tên chữ là Lam Kiều thị. Đúng ra phải gọi là chợ Cầu Chàm, nhưng dân chúng lại quen gọi là chợ Gò Chàm. Bởi đó, có người còn cho rằng chợ được lập trên vùng đất gò có nhiều mồ mả người Chàm. Năm 1940, chợ Gò Chàm dời vào khu đất phía đông bắc bên ngoài thành Bình ịnh, sát với khu phố của thị trấn và đổi tên là chợ Bình ịnh, hay chợ Thành, nhưng dân chúng vẫn quen gọi tên cũ. Chợ mới vẫn giữ vai trò lớn nhất tỉnh, nhóm chợ mỗi ngày và mỗi tháng có sáu phiên vào các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23, 28. Ngoài ra, xưa nay vẫn giữ lệ phiên chợ 23, 28 tháng chạp âm lịch nhóm suốt ngày đêm và đông hơn các phiên chợ khác trong năm. Chợ Bình Định ngày nay Chợ Giã Còn gọi là chợ Quy Nhơn, một phiên chợ ở tỉnh Bình Định, thuộc làng Chánh Thành bao gồm phường Hải Cảng, Trần Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo và phường Lê Lợi ngày nay, cùng với chợ Thị Nại chợ Quy Nhơn ngày nay là những trung tâm mua bán sầm uất vào bậc nhất của cảng Thị Nại với các sản phẩm như gạo, củi, vôi, ngư cụ dưới thời nhà Nguyễn. Chợ Dinh Một ngôi chợ nay thuộc thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Chợ Huyện Một địa danh nay là làng Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Chợ Huyện nổi tiếng với món nem chua cùng tên. Cổng làng Chợ Huyện Nem chợ Huyện Nem ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Đây là đặc sản rất nổi tiếng của tỉnh Bình Định. Nem chợ Huyện Quán Ngỗng Một cái chợ ở thôn Chánh Định, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, sát với huyện An Nhơn, Bình Định. Chợ Quán Ngỗng hình thành từ thời kì người Chàm thành Đồ Bàn sống chung với người Việt, khoảng thế kỉ 17, 18. Có tên như vậy vì chợ bán nhiều gia cầm. Gò Chim Tên một cái chợ ở thôn Phú Giáo xã Cát Thắng, huyện Phù Cát, Bình Định. Trước kia chợ nổi tiếng có nhiều thợ bạc khéo tay. Ngày nay chợ vẫn còn hoạt động. Cầu Chàm Tên chữ là Lam Kiều, một địa danh nằm ở phía Bắc Bình Định ngày trước. Tại đây có trồng nhiều cây chàm để nhuộm nên gọi là Cầu Chàm, sau đọc trại ra thành Gò Chàm. Đập Đá Một địa danh nay là một phường thuộc thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngày xưa đây là vùng sông nước, nhân dân phải đắp đập bổi để canh tác, gọi là đập Thạch Yển, sau là đập Thạch Đề tức là Đập Đá. Nằm ở phía đông thành Đồ Bàn xưa của Chiêm Thành và thành Hoàng Đế sau này của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc, nơi đây hội tụ nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo để cung cấp cho vua quan và các thân bằng quyến thuộc chi dùng dệt vải, rèn, đúc đồng, gốm, kim hoàn... Hiện nay Đập Đá là một địa điểm du lịch có tiếng của Bình Định. Nghề dệt sợi ở Đập Đá Vũng Nồm Địa danh thuộc xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay, còn có tên là thôn Xương Lý. Vũng Nồm Vũng Bấc Một địa danh thuộc xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay, còn có tên là thôn Hưng Lương. Vũng Bấc Gò Găng Một địa danh nay thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Tại đây có nghề làm nón truyền thống, đồng thời có phiên chợ nón Gò Găng rất độc đáo, họp từ nửa đêm đến rạng sáng. Nón làm ở chợ Găng ngày xưa chủ yếu là nón ngựa. Chợ nón Gò Găng Phú Gia Một thôn nay thuộc xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Phú Gia nổi danh với nghề làm nón ngựa. Phú Đa Một ngôi chợ thuộc thôn Tân Dân, thuộc tổng Háo Đức thượng, nay thuộc xã An Nhơn, thị xã Nhơn An, tỉnh Bình Định. Theo người xưa thì ông Võ Văn Thành, quê ở Phú Đa làm quan đại thần dưới triều chúa Nguyễn Phúc Trăn 1678 – 1691 và ông tổ họ Trần là những người có công thành lập chợ. Nhờ nằm trên các trục lộ giao thông, xe cộ, thuyền bè qua lại thuận tiện nên thời bấy giờ Phú Đa là một trung tâm thương mại ở phía nam Bình Định. Chợ họp một tháng 6 phiên vào những ngày 4 và 9 4, 9, 14, 19, 24, 29 mỗi tháng. Ngoài ra, ngày nào cũng có chợ chiều đông đúc phục vụ nhu cầu mua bán của nhân dân cả vùng. Sông Hương Tên con sông rất đẹp chảy ngang thành phố Huế và một số huyện của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tùy theo giai đoạn lịch sử, sông còn có các tên là Linh Giang, Kim Trà, Hương Trà... Ngoài ra, người xưa còn có những tên địa phương như sông Dinh, sông Yên Lục, sông Lô Dung... Sông Hương đã được đưa vào rất nhiều bài thơ, bài hát về Huế, đồng thời cùng với núi Ngự là hình ảnh tượng trưng cho vùng đất này. Cầu Tràng Tiền bắc ngang qua sông Hương Đập Đá Tên một con đập nổi tiếng của Huế, bắt ngang qua một nhánh sông Hương, ngăn cho dòng nước từ thượng lưu không chảy về phía hạ lưu và ngăn nước mặn từ biển Thuận An chảy vào các cánh đồng lúa. Đập Đá Công sứ Chức danh cai trị của người Pháp trong thời kì Pháp thuộc, đứng đầu một tỉnh. Cầu Tràng Tiền Còn có tên gọi là cầu Trường Tiền, một chiếc cầu gồm sáu nhịp dầm thép thiết kế theo phong cách kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương, ngay trung tâm thành phố Huế. Đây là một trong những chiếc cầu thép đầu tiên được xây tại Đông Dương. Tràng Tiền hay Trường Tiền đều có nghĩa là "công trường đúc tiền" vì chiếc cầu này được xây gần công trường đúc tiền của nhà Nguyễn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, tên gọi dân gian này trở thành tên chính thức. Trước đó, cầu còn có các tên gọi khác cầu Đông Ba do ở gần chợ Đông Ba, cầu Mây, cầu Mống, Thành Thái, Clémenceau, và Nguyễn Hoàng. Cầu Tràng Tiền Chợ An Cựu Một ngôi nằm bên bờ Bắc sông An Cựu, xưa thuộc làng An Cựu, huyện Hương Trà, nay thuộc phường Phú Hội, thành phố Huế. Trước đây, chợ có tên là chợ Đường Ngang vì nó nằm trên một trong những đường ngang thẳng góc với sông Hương. Chợ có từ thời Minh Mạng. Năm 1835, khu vực chợ được dùng để dựng Nam Trường Đình, về sau có người Hoa buôn bán đông đúc. Nay chợ vẫn là một trong những chợ sầm uất ở phía Nam thành phố Huế. Chợ An Cựu ngày nay Vị trí chợ An Cựu ngày xưa bây giờ là Nhà Văn hóa trung tâm thành phố Huế. Trước đây, vì gần đó có trại lính Pháp nên người Pháp bắt chợ phải dời đến địa điểm hiện nay. Xâu Cũng gọi là sưu, món tiền mà người đàn ông từ mười tám tuổi trở lên phải nộp sưu thế, hoặc những công việc mà người dân phải làm cho nhà nước phong kiến hay thực dân đi xâu. Đàng Đường, hướng phương ngữ Trung và Nam Bộ. Đập Đá Địa danh nay thuộc xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đông Ba Một địa danh ở Huế, vốn là tên dân gian của cửa Chính Đông, kinh thành Huế. Địa danh này gắn liền với chợ Đông Ba, ngôi chợ nổi tiếng nhất của Huế, trước đây tên là Quy Giả thị "chợ của những người trở về," đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của quan quân nhà Nguyễn. Đến năm 1887 vua Đồng Khánh cho xây lại gồm có “đình chợ” và “quán chợ” lấy tên là Đông Ba. Đến năm 1899, trong công cuộc chỉnh trang đô thị theo phong cách phương Tây, vua Thành Thái chuyển chợ Đông Ba về vị trí bây giờ, đình chợ cũ sửa lại làm thành trường Pháp Việt Đông Ba. Địa danh Đông Ba thật ra tên cũ là Đông Hoa, nhưng do kị húy với tên vương phi Hồ Thị Hoa dưới thời Nguyễn mà đổi tên. Chợ Đông Ba ngày trước Vĩ Dạ Một địa danh thuộc Huế. Tên gốc của làng là Vĩ Dã, từ cách phát âm của người dân Huế mà dần trở thành Vĩ Dạ. Làng Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương, phong cảnh thơ mộng, đã đi vào thơ ca nhạc họa, nổi tiếng nhất có lẽ là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Toàn cảnh thôn Vĩ Dạ ngày nay Ngã ba Sình Ngã ba sông nơi gặp nhau giữa sông Hương và sông Bồ trước khi xuôi về phá Tam Giang đổ ra biển. Đây cũng là nơi sinh tụ của nhiều làng nghề như tranh làng Sình, hoa giấy Thanh Tiên cùng với các hoạt động văn hóa đặc sắc. Video về Ngã ba Sình Ngã ba Sình Bạ Tùy tiện, không cân nhắc. Mô Đâu, nào phương ngữ Trung Bộ. Cầu Đôi Tên chung của hai cây cầu song song nhau, một dành cho xe lửa và một dành cho đường bộ, nằm ở cửa ngõ thành phố Quy Nhơn, Bình Định, bắc trên nhánh sông từ hồ đèo Son chảy ra đầm Thị Nại. Cầu Đôi Cây Cốc Tên một cái đèo ở tỉnh Bình Định. Gò Bồi Tên một vạn làng chài thuộc làng Tùng Giản, xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nơi sông Côn đổ ra biển. Thị trấn Gò Bồi xưa giữ vị trí khá quan trọng trong giao lưu, kinh tế, văn hóa, du lịch của tỉnh. Đặc biệt ở đây có nghề làm nước mắm truyền thống từ hai trăm năm trước. Anh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi Nên đến già thơ anh còn đậm đà thấm thía. Đêm ngủ ở Tuy Phước - Xuân Diệu Gò Bồi ngày nay Đồ Bàn Tên một thành cổ nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, cách thành phố Qui Nhơn tỉnh Bình Định 27 km về hướng tây bắc. Đây là kinh đô của Chăm Pa trong thời kỳ Chăm Pa có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn còn có tên là Vijaya, thành cổ Chà Bàn, thành Hoàng Đế, hoặc thành Cựu. Sư tử đá trong thành Đồ Bàn Thành Bình Định Tên một tòa thành cổ, được vua Gia Long cho xây dựng vào năm 1814 với vai trò là thủ phủ trung tâm của vùng đất Quy Nhơn, Bình Định, hiện nay thuộc đường Lê Hồng Phong, phường Bình Định, trung tâm thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thành được sử dụng trong thời gian 132 năm, từ năm 1814 đến năm 1946. Từ năm 1946, do cuộc chiến tranh với Pháp thành đã bị phá hoàn toàn. Hiện nay chỉ còn biểu tượng của ngôi nhà đón khách còn sót lại và cổng thành phía đông cửa đông được xây dựng lại, bên trên có tầng lầu. Thành Bình Định được dân gian gọi là thành Tân, đối lại với thành Cựu thành Đồ Bàn. Cửa Đông thành Bình Định hiện nay Giao lân Đi lại giao với hàng xóm láng giềng lân. Tên các làng thuộc tổng và phủ của Bình Định ngày trước. BT- Trong đề án xây dựng thị xã La Gi trở thành đô thị loại 3 trước năm 2020, trong đó lĩnh vực du lịch được xác định có nhiều lợi thế để phát triển. Đập Đá Dựng. Ảnh Đình Hồng3 cơ sở dinh Thầy Thím, hòn Bà và đình - vạn Phước Lộc đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch cùng UBND tỉnh Bình Thuận công nhận là di tích lịch sử văn hóa, thắng tích và một số dinh vạn, đình chùa sẽ hình thành một tuyến du lịch tâm linh. Với La Gi, lễ hội dinh Thầy Thím đã tạo tiền đề cho phát triển du lịch từ hơn 30 năm qua. Nhưng vì sao 39 dự án du lịch dọc bờ biển 28 km được tỉnh chấp thuận đầu tư nay chỉ có 5 dự án hoạt động. Về lâu dài, ngành du lịch phải xây dựng đồng bộ, đa dạng trong xu hướng phục vụ. Du khách đến La Gi không những đến đây tắm biển, nghỉ dưỡng mà còn có nhu cầu tiếp cận với du lịch tâm linh, ẩm thực và các công trình, thắng tích tiêu thể coi đập Đá Dựng khá đặc trưng của một công trình xây dựng hài hòa với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, vắt mình qua dòng sông Dinh và nằm ngay trung tâm thị xã. Dưới chân đập là một bảo tàng đá, muôn hình muôn vẻ, tạo ra những bóng sương hư ảo từ thác nước biến đổi từng mùa. Dưới thời VNCH khi vừa thành lập tỉnh Bình Tuy, đập Đá Dựng được khởi công xây dựng vào cuối năm 1957, nay tròn 60 năm. Địa hình hội tụ của đá với dáng đứng sừng sững lạ lùng như tên gọi. Đập dài 80 m, chân dày 3 m và cao 8 m trên mặt nhằm tưới tiêu cho 500 ha ruộng, là nguồn nước sinh hoạt vừa định hình một điểm du lịch, tham quan hấp dẫn. Chỉ bằng những phương tiện thô sơ, cảnh quan được cải tạo từ những gộp đá tự nhiên, cây rừng ven hai bờ đập đều có dàn bông giấy đỏ. Phía hữu ngạn sông Dinh có một vườn hoa rợp bóng trên diện tích rộng khoảng 4 ha với những bồn hoa trang trí đan xen phượng đỏ và cây cảnh. Đặc biệt loài hoa đào này khác với loài mai anh đào ở Đà Lạt hay hoa anh đào Nhật Bản, thân cây nhiều nhánh và chỉ thích hợp ở xứ lạnh. Ở đây, thân cây suôn và lá mềm mại, những đóa hoa đóng chuỗi dài trên thân cây có màu hồng phấn và mùi hương ngào ngạt. Hoa nở mùa nào cũng có và rộ lên khi tiết trời vào xuân. Người dân địa phương gọi đó là hoa anh đào vì giống hệt hoa anh đào Nhật Bản dù thân cây, mùa trổ hoa khác biệt. Bậc thang từ mặt đập xuống bãi đá lô nhô có tượng kỳ lân và “long ngư vượt vũ môn”, theo truyền thuyết ở thượng nguồn sông Trường Giang. Trước đây có ngôi chùa một cột trong lòng hồ nhưng bị lũ quét nhận chìm. Nơi này trở thành khu pic-nic, cắm trại trong những ngày nghỉ cuối tuần và khách xa đến đều phải một lần ghi dấu vài bức ảnh giữa sông nước và màu hoa đào kỳ diệu khó thấy nơi đáng nói, địa bàn này trong chiến tranh không ảnh hưởng gì để phải chịu sự tàn phá. Tuy những năm sau cũng có tu bổ nhưng chỉ nhằm tích trữ nước cho nhà máy nước hơn là chú ý đến cảnh quan. Thật đơn giản, nếu có sự quan tâm đến quy hoạch và bảo tồn công trình đập Đá Dựng, giữ nguyên vườn hoa đào, giữ “hành lang” bờ sông là nằm trong khả năng của nhà quản lý. Nhưng từ nhiều năm qua, do không quan tâm đầu tư, buông lỏng đã để công trình nhếch nhác, vườn hoa đào bị phá sạch, hai bờ sông thì mặc tình san lấp, cây xanh rặng tre không còn nữa. Vào năm 2012, qua phản ánh từ dư luận, báo chí, Thị ủy và Hội đồng nhân dân thị xã La Gi đặt vấn đề với chính quyền phải có biện pháp quản lý đất khu vực để phục hồi, thì mới biết chỉ còn chưa đầy một sào đất, còn lại đã cấp hết cho dân xây dựng nhà ở, nhà trọ... Lại có lúc giao cho tư nhân dựng quán nhậu, cà phê trên diện tích đất còn quản lý với giá thuê vài triệu đồng/năm. Có lẽ các cấp lãnh đạo địa phương nên cho truy cứu lại tình trạng đất đai ở đây, khôi phục lại cảnh quan và đặc biệt là vườn hoa anh đào. Có vậy mới nói đến sản phẩm du lịch giữa lòng đô thị, góp phần vào sự phát triển du lịch của địa phương, cũng chưa CHÍNH Đập Đá ngày nay là một thị trấn sầm uất nằm cạnh quốc lộ 1A, con đường giao thông huyết mạch xuyên suốt Bắc – Nam nên càng thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, thương mại. Thành Hoàng Đế đang được khai quật khảo cổ, phát hiện ra nhiều hiện vật quí giá từ thời Chiêm Thành đến thời Tây Sơn. Chắc chắn đây sẽ là địa chỉ du lịch khá thú vị cho những ai quan tâm đến văn hóa và lịch sử, không chỉ vùng thành Hoàng Đế mà cả Đập Đá nữa Đường đi vào đập Đá Bình Định Huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định có 13 xã thì hầu hết các xã được bắt đầu bằng chữ Nhơn, như Nhơn Hòa, Nhơn Hưng, Nhơn Khánh, Nhơn Phong, Nhơn Hạnh, Nhơn Thành, Nhơn Lộc… Riêng có một xã mang cái tên khác lạ Đập Đá trước là xã, nay đã thành thị trấn.Sở dĩ xã được mang tên hành chính như vậy vì xưa kia đây là vùng sông nước với sông Kôn, sông Đập Đá và nhiều nhánh chằng chịt. Các cư dân vùng này phải đắp đập bổi để canh tác gọi là đập Thạch Yển, sau là đập Thạch Đề tức là Đập Đá, vì chỗ này sông rộng, có bến đá ong nổi tự nhiên rất đẹp. Vẻ đẹp bình dị của đập Đá Đập Đá nằm ở phía đông thành Đồ Bàn xưa của Chiêm Thành và thành Hoàng Đế sau này của vua Tây Sơn Thái Đức Nguyễn Nhạc. Là phên dậu của đất đế vương nên nơi đây hội tụ nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo để cung cấp cho vua quan và các thân bằng quyến thuộc chi dùng. Đó là nghề dệt vải với các loại hàng cao cấp như lụa, the, lương, xuyến, lãnh. Đó là nghề rèn, nghề đúc đồng với các đồ thờ cúng như tượng, lư, đỉnh… Đó là nghề làm nón ngựa, làm giày da guốc mộc để các chàng công tử ăn diện. Rồi là các nghề chăn tằm ươm tơ, nghề tiện gỗ, nghề gốm, nghề kim hoàn, nghề khảm xà cừ, nghề làm nhang, làm đồ hàng mã… khá phát triển ở mỗi thôn xóm của Đập Đá tạo nên sự đa dạng ngành nghề thủ công và việc buôn bán sầm uất. Tháp Cánh Tiên ở gần Đập Đá Đập Đá là nơi xưa kia anh Hai Trầu Nguyễn Nhạc thường xuôi ngược sông Kôn từ Tây Sơn Thượng đạo xuống, chở theo trầu cau mua bán, đổi chác hàng hóa ở đây nhưng cũng là để thăm dò dân tình, chuẩn bị tổ chức lực lượng cho cuộc khởi nghĩa. Đây chính là quê hương của ông “Chảng Ngang Thiên” Đinh Văn Nhưng, một trong những thầy dạy võ, người đỡ đầu anh em Tây Sơn. Giáo xứ Đập Đá Đập Đá nổi tiếng từ lâu đời nên đã đi vào ca daoEm về Đập đá quê chaGò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng…Anh về Đập Đá đưa đòTrước đưa quan khách, sau dò ý em…Anh về Đập Đá, Gò GăngCùng em kéo sợi dưới trăng chung tình… Đăng bởi Cẩm TiênTừ khoá Đập đá Ở tỉnh Bình Định có 3 con sông chính sông Lại Giang, sông La Tinh và sông Côn sông Tuy Viễn cùng nhiều chi lưu, bên cạnh hệ thống bờ xe nước, hệ thống đập bổi được người xưa sử dụng ở hầu hết các tuyến sông này để đưa nước về đồng. Hệ thống đập bổi được đắp tương đối sớm, có số lượng nhiều, phân bố khá đậm đặc và dấu tích miếu thờ các bậc tiền hiền còn tồn tại nhiều ở khu vực hạ lưu sông Côn thuộc Nhơn và các huyện Tây Sơn, Tuy Phước, Phù Cát. Lập miếu thờ tiền nhân có công xây đắp đập Hiện vùng hạ lưu sông Côn còn lại một số dấu tích miếu thờ các bậc tiền hiền có công đắp đập ngăn sông, khai thông mương mán đưa nước về đồng, được nhân dân địa phương tu bổ tôn tạo, chăm sóc tế lễ và được xếp hạng di tích như miếu ông Văn Phong ở xã Tây An, Sơn, dinh tiền hiền thờ hai anh em ông Lê Kim Bôi và Lê Kim Bảng ở xã Tây Phú, Sơn. Ngoài ra còn có 3 ngôi miếu khác là miếu bà Châu Thị Ngọc Mã và bà Trần Thị Ngọc Lân ở Đá, Nhơn, miếu ông Trần Đình Cơ và ông Nguyễn Cảnh Chiêm ở thôn Hòa Cư, Hưng, Nhơn, miếu ông Trần Văn Nghĩa ở thôn Lục Chánh, xã Phước Lộc, Phước đã bị sụp đổ, chỉ còn lại dấu vết nền móng miếu. Năm 2019, miếu hai bà Châu Thị Ngọc Mã và bà Trần Thị Ngọc Lân được nhân dân đóng góp tiền khôi phục lại trên nền miếu xưa phía bắc bờ Đập Đá. Vùng hạ lưu sông Côn từ làng Kiên Mỹ nay thuộc Phong, Sơn đến cửa Thị Nại Nhơn khoảng hơn 30 cây số, thì cũng có khoảng hơn 30 đập lớn nhỏ kể cả các chi lưu của sông Côn đã được Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán Triều Nguyễn ghi chép và Nước non Bình Định của Quách Tấn cũng ghi lại như đập Văn Phong, Bằng Châu, Đông Tháp, Đập Thốt, Bảy Yển, Tháp Mão, Thị Lựa, Bến Cát, Thạnh Hòa, Tri Huyện, Kỳ Bương, Cây Sung, Sầu Đâu, Bạn Cát, Giáo Đất, Trường Giang, Ngô Đồng, Gia Phù, Gò Đỗ, Hiệp Sơn, Ma Na, Kí Lược, Lão Tự, Phủ Sinh, Văn Chiêm, Phổ Trạch, Kí Lục, Phú Xuân, Trung An, Xuân An, Tiên Yên, Tân Hòa, Thuận Hạc, Đập Đá... Theo Trần thị Gia phả của họ Trần ở thôn Tri Thiện xã Phước Quang, Phước, ông tổ Trần Đình Cơ cùng với ông Nguyễn Cảnh Chiêm trong 8 năm ròng dưới triều Lê Cảnh Trị 1663-1671 đứng ra xây đắp công trình thủy nông đập Bến Cát và xây dựng hệ thống kênh mương đưa nước về đồng ruộng 6 thôn Quảng Nghiệp, Liêm Trực, Tri Thiện, Phục Thiện, Lộc Ngãi và Định Thiện. Đây là công trình thủy nông sớm nhất biết được hiện nay của vùng Bình Định. Từ đó, nhân dân 6 thôn và các chức yển suy tôn ông Trần Đình Cơ và ông Nguyễn Cảnh Chiêm là “Sáng thủy nhị tiền hiền”. Đồng thời, nhà nước trí trạch 10 mẫu ruộng để đáp lại công đức hai ông và cùng với họ Trần 3 lần xây dựng, trùng tu miếu thờ ông Trần Đình Cơ ban đầu tại thôn Khánh Lễ, sau chuyển về đập Bến Cát, thuộc thôn Hòa Cư nay thuộc Hưng, Nhơn. Hàng năm, mỗi lần cúng tế tại đập Bến Cát đều có đem biếu kiến tiền hiền một tợ thịt heo ba sườn cùng một tộ lòng. Phần thịt này con cháu tiền hiền ở từ đường được hưởng. Để đôn đốc việc xây đắp, tu bổ đập, nạo vét mương và phân chia nước, 6 thôn tổ chức họp bầu ra Ban Yển. Người trong họ Trần thuộc thôn Tri Thiện luôn luôn được bầu làm Chánh Yển nhằm tri ân dòng họ có người đầu tiên đứng ra khởi xướng xây đắp đập, các dòng họ khác chỉ được bầu làm Phó Yển và Thủ Yển. Tục lệ này được giữ suốt trong 3 thế kỷ thừ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20, đến đời Chánh Yển cuối cùng năm 1975 là ông Trần Văn Từ dòng họ tiền hiền Trần Đình Cơ ở thôn Tri Thiện. Cũng theo Trần thị gia phả, dưới triều vua Gia Long 1802-1820, việc trị thủy, chống hạn... được đề cao như việc chống giặc, “Yển ước quan bằng” được lập văn bản quy ước về đê điều. Cháu 6 đời ông tổ Trần Đình Cơ là Trần Văn Nghĩa đã cùng với hai bà họ Châu ở thôn Dương Lăng và họ Trần ở thôn Háo Đức, xã Nhơn An, Nhơn tổ chức đắp đập Bảy Yển tại nơi phân lưu Bắc phái và Nam phái. Hai bà Châu - Trần chịu trách nhiệm Bắc phái, ông Trần Văn Nghĩa chịu trách nhiệm Nam phái. Nhánh sông Nam phái từ thôn Phụ Ngọc chảy xuống hướng Nam qua thành Bình Định xuống Tân An… Bức hoành họ Trần thôn Tri Thiện ẢNH NGUYỄN THANH QUANG Đồng thời, ông Nghĩa cho đắp bờ cừ suốt 10km từ Tân An thuộc Nghi, Hòa, Nhơn đến thôn Tân Điền xã Phước Quang, Phước, thu hẹp sông Côn để khẩn hoang ruộng từ “bãi cát vàng” và đáy sông Côn tạo ra cánh đồng “xứ Sông Cạn” và những hồ giữ nước chống hạn như Bàu Sen, Bàu Lác, Bàu Mán. Ông được quan trấn tỉnh Bình Định cấp bằng Đề Lĩnh, người đời sau tôn vinh là “Hậu Hiền Đề Lĩnh” và xây miếu thờ ở thôn Lục Chánh xã Phước Lộc, Phước. Đập Bảy Yển chia nước cho Nam – Bắc phái, trong đó có 7 đập ở Nam phái Thị Lựa, Tháp Mão, Bến Cát, Thạnh Hòa, Tri Huyện, Cây Sung và Gò Đỗ. Đến năm 1959, đập Bảy Yển được xây bằng xi măng và vẫn giữ nhiệm vụ phân nước cho Nam phái và Bắc phái, đưa nước về những cánh đồng của 2 huyện Tuy Phước, Phù Cát và Nhơn trước khi đổ ra biển là cửa sông Gò Bồi. Đập xây bằng xi măng đầu tiên ở Trung kỳ Theo Đại Nam nhất thống chí, bắc phái sông Côn từ thôn Nghĩa Nhơn chảy ra đông - bắc, đến Tân Kiều lại chia làm 2 chi một chi chảy vào nam 12 dặm đến thôn Phương Mính, làm sông Thạch Yển, lại thuận dòng chảy hơn 30 dặm đến thôn Đa Tài, huyện Tuy Phước. Chi thứ 2 chảy về phía bắc 8 dặm đến thôn Thuận Chánh là sông Gò Găng. Sông Thạch Yển xưa gọi là sông Bằng Châu, đập bổi mà hai bà Châu - Trần đắp để dẫn nước vào ruộng, trong Đại Nam nhất thống chí gọi là "Bằng Châu giang Thạch Yển" Đập Đá sông Bằng Châu. Vì sao lại gọi là Thạch Yển Đập Đá trong khi đập đắp bằng bổi thì trong Đại Nam nhất thống chí có giải thích vì lòng sông có đá nên gọi tên ấy. Để nhớ công đức hai bà, người đời sau đã lập dinh thờ hai bà tại Đập Đá và tổ chức tế lễ, hát bội vào tháng 3 hàng năm. Dinh thờ hai bà bị sập đổ trong chiến tranh, còn di tích nền móng, hiện nay người dân địa phương vận động đóng góp kinh phí phục hồi dinh thờ hai bà tại vị trí di tích. Năm Bính Thìn 1916 triều Khải Định, Hội Bảo nông Bình Định do Bá hộ Nguyễn Cẩn, Bá hộ Lâm Thanh Cẩn và Phú hộ Ôn Huỳnh Châu đứng ra cổ động góp cổ phần xây Đập Đá bằng xi măng thay đập bổi để dẫn thủy nhập điền. Trong Lâm Viên hành trình nhật ký, là thiên ký sự của Đoàn Đình Duyệt - một quan chức cao cấp triều Nguyễn, nhân chuyến đi công cán đến tỉnh mới Lâm Viên nay là Lâm Đồng vào năm 1917, tức là 1 năm sau khi Đập Đá được xây xi măng có ghi lại bản dịch của Phạm Hoàng Quân có nêu Ông đi qua Bình Định được các quan tỉnh đưa đi xem Hội Bảo nông ở trong hạt chất đá đắp đập. Đây là đập dùng xi măng mà đúc thành, cắt ngang giữa sông, dài hơn 100 thước tây, thông dòng nước bằng 9 cửa, vòng vo đen ngòm, nương theo thế nước. Cửa thông nước dùng ván gỗ chia bậc chắn ngang, mỗi bậc đều có thước tấc để tùy lúc đóng mở, cũng lấy đó mà quy ước giới hạn. Đập chia phải trái hai bờ, lấy đá lớn đắp làm móng đề phòng nước lũ xói mòn hai bên bờ sông, trên móng lại chất không biết bao nhiều là đá, quy cách có hơi mới. Bây giờ, ông già bà cả trong hạt vây quanh mà xem ước có cả trăm người, họ đều bảo rằng từ lúc làm Đập Đá này đến nay, được hai vụ trúng mùa lớn, dân tình rất vui vẻ. Với nhà nông ở tỉnh, việc đắp đập rất quan trọng, phàm đắp đập ngang dọc, chứa nước bao nhiêu, xả nước ít nhiều đều phải có văn thư giao ước. Chỗ con Đập Đá này, nguyên trước kia có hai bà mua đất riêng, mở dòng nước riêng mà giữ nước sông Đại An. Đập lúc ấy dùng vật liệu là các thứ gốc rạ, thân tre bện với cát mà đắp thành, thường bị lũ lụt xói mòn, mỗi năm đều phải đắp, nhà nông phải chịu tốn kém mỗi lần đắp khoảng 3 ngàn đồng. Một lần nước lũ phá vỡ đập là cả năm phải chịu đói kém. Năm trước nhà nông Nguyễn Cẩn mới đệ đơn xin gom cổ phần mà đắp đập bằng đá và xi măng, tính ra hơn vạn bạc, làm một năm thì xong. Những người tham gia tổ chức việc đắp đập đều được quan tỉnh tưởng thưởng. Và ông nhận xét về Đập Đá như sau “Nay thần đến xem, quả thực thấy đập này bền chắc lắm, trong các quytắc đắp đập thì đây thực là tối tân, ta đang có chủ trương cải cách việc nông nghiệp ở Trung kỳ, nếu phỏng theo đây mà làm thì ắt được lợi ích lâu dài vậy”. Cũng theo Đoàn Đình Duyệt, Đập Đá là đập xây xi măng đầu tiên của Trung kỳ. Sau năm 1975, toàn bộ đập bổi ở Bình Định đã được thay thế bằng hệ thống đập bê tông cốt thép kiên cố. Hiện nay, Đập Đá vẫn còn sử dụng và được tu bổ kiên cố hơn, dài khoảng 100m có 4 cửa, mỗi cửa có 3 hộc xả nước, mỗi hộc có 2 lớp vách ngăn, thuộc thôn Phương Danh, phường Đập Đá, huyện An Nhơn, cách trụ sở UBND phường khoảng 500m về hướng Nam. Tên Thạch Yển - Đập Đá đã có từ xa xưa. Nhưng Đập Đá nổi danh từ sau khi đập được xây đắp bằng xi măng làm cho các cánh đồng xung quanh trở nên trù phú, phồn thịnh. Năm 1949, thể theo nguyện vọng của nhân dân, Ủy ban hành chánh tỉnh Bình Định đã thành lập xã Đập Đá thuộc An Nhơn gồm 4 thôn Phương Danh, Bằng Châu, Bả Canh, Mỹ Hòa. Hiện nay, là phường Đập Đá, thị xã An Nhơn. Đập Đá từ tên một con đập bổi đã trở thành một địa danh nổi tiếng - Em về Đập Đá quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng - Anh về Đập Đá đưa đò Trước đưa quan khách, sau dò ý em - Anh về Đập Đá, Gò Găng Để em kéo vải sáng trăng một mình. Hơn 3 thế kỷ, các bậc tiền hiền ở Bình Định nói chung và vùng hạ lưu sông Côn nói riêng đã hình thành một hệ thống thủy nông - đập bổi đưa nước về đồng ruộng, tạo nên những cánh đồng trù phú cho 4 huyện Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và Phù Cát… Nơi đây, đã trở thành vựa lúa từ thuở còn là miền biên viễn của Đại Việt cho đến tận bây giờ. Ngày nay, đập bổi đã được thay thế bằng những công trình thủy lợi kiên cố bê tông cốt thép, nhưng những di tích miếu thờ tiền hiền như lời nhắn của tiền nhân cho thế hệ sau về một thời ngăn sông, thông mương đưa nước về đồng bằng đập bổi của ông cha.

vì nhiều năm đập đá