cuốn sách sử Việt-12 khúc tráng ca Tác phẩm "Sử Việt - 12 khúc tráng ca" kể về 12 câu chuyện dựng nước và giữ nước thời phong kiến, được chọn lọc theo tính chất quan trọng và hùng tráng trong dòng chảy lịch sử Việt Nam. Cuốn sách là sự kết hợp của những tư liệu lịch sử đã được kiểm chứng, xen kẽ với nhận định và đánh giá của người biên soạn. Minh Trang LyLy đón xuân mới bằng Album xuân vô cùng sôi động với những bản hit No limit đã từng làm mưa làm gió một thời và những ca khúc xuân mới theo phong cách nhạc EDM và Remix hết sức thu hút vui tươi. Album vừa mang một màu sắc quen thuộc nhưng cũng vừa mang đến cho khán giả sự bất ngờ và cuốn hút. Sử Việt 12 khúc tráng ca - cuốn sách được viết bởi nhà báo Dũng Phan, một con người yêu sử nước nhà và mong muốn được truyền tình yêu đó tới tất cả các bạn trẻ Việt Nam có lẽ đã làm được điều đó. Vì thế, dù cho bạn là người không có mấy hứng thú với lịch sử, bạn cũng nên đọc cuốn sách này vì nó giúp bạn khơi nguồn tình yêu với lịch sử. Bài viết này của admin Trần Hùng đăng trong hội Bình Thư Quán. Bài viết nêu cảm nhận về cuốn sách đang hot hiện nay: Sử Việt 12 khúc tráng ca. Trước hết, tôi phải quán triệt rõ, trong gúp có cả fans của Phan & anti-fans của Phan, nhưng nếu các anh chị muốn tranh luận Nữ nhạc công piano với nickname Ru đã cosplay Lucy để trình diễn ca khúc chủ đề 'I Really Want to Stay at Your House'. Thứ bảy, 00:51 15/10/2022. Tuyển dụng Giấy phép trang tin điện tử tổng hợp Căn 12, Mộc Lan 6 (ML6-12), khu đô thị Vinhomes Green Bay, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Fast Money. We will keep fighting for all libraries - stand with us! Internet Archive logo A line drawing of the Internet Archive headquarters building façade. Upload icon An illustration of a horizontal line over an up pointing arrow. Upload User icon An illustration of a person's head and chest. Sign up Log in Internet Archive Audio Live Music Archive Librivox Free Audio Featured All Audio This Just In Grateful Dead Netlabels Old Time Radio 78 RPMs and Cylinder Recordings Top Audio Books & Poetry Computers, Technology and Science Music, Arts & Culture News & Public Affairs Spirituality & Religion Podcasts Radio News Archive Images Metropolitan Museum Cleveland Museum of Art Featured All Images This Just In Flickr Commons Occupy Wall Street Flickr Cover Art USGS Maps Top NASA Images Solar System Collection Ames Research Center Software Internet Arcade Console Living Room Featured All Software This Just In Old School Emulation MS-DOS Games Historical Software Classic PC Games Software Library Top Kodi Archive and Support File Vintage Software APK MS-DOS CD-ROM Software CD-ROM Software Library Software Sites Tucows Software Library Shareware CD-ROMs Software Capsules Compilation CD-ROM Images ZX Spectrum DOOM Level CD Books Books to Borrow Open Library Featured All Books All Texts This Just In Smithsonian Libraries FEDLINK US Genealogy Lincoln Collection Top American Libraries Canadian Libraries Universal Library Project Gutenberg Children's Library Biodiversity Heritage Library Books by Language Additional Collections Video TV News Understanding 9/11 Featured All Video This Just In Prelinger Archives Democracy Now! Occupy Wall Street TV NSA Clip Library Top Animation & Cartoons Arts & Music Computers & Technology Cultural & Academic Films Ephemeral Films Movies News & Public Affairs Spirituality & Religion Sports Videos Television Videogame Videos Vlogs Youth Media Search the history of over 808 billion web pages on the Internet. Search the Wayback Machine Search icon An illustration of a magnifying glass. Mobile Apps Wayback Machine iOS Wayback Machine Android Browser Extensions Chrome Firefox Safari Edge Archive-It Subscription Explore the Collections Learn More Build Collections Save Page Now Capture a web page as it appears now for use as a trusted citation in the future. Please enter a valid web address AboutBlogProjectsHelpDonateContactJobsVolunteerPeople About Blog Projects Help Donate Donate icon An illustration of a heart shape Contact Jobs Volunteer People Audio Item Preview Flag this item for Graphic Violence Explicit Sexual Content Hate Speech Misinformation/Disinformation Marketing/Phishing/Advertising Misleading/Inaccurate/Missing Metadata audio Sử Việt 12 khúc tráng ca - Topics Lịch Sử Addeddate 2019-08-26 111902 Identifier Link Scanner sachnoiapp Uid Ku7YU1LhlHFB1bSimuDp plus-circle Add Review comment Reviews There are no reviews yet. Be the first one to write a review. 17,962 Views DOWNLOAD OPTIONS download 1 file ITEM TILE download download 1 file JPEG download download 12 files OGG VORBIS Uplevel BACK download download download download download download download download download download download download download 1 file TORRENT download download 1 file VBR M3U download download 12 files VBR MP3 Uplevel BACK download download download download download download download download download download download download download 67 Files download 18 Original SHOW ALL IN COLLECTIONS Folksoundomy Vietnamese Audiobooks Folksoundomy A Library of Sound Uploaded by public_audio on August 26, 2019 SIMILAR ITEMS based on metadata Terms of Service last updated 12/31/2014 Sử Việt – 12 Khúc Tráng Ca Tác giả Dũng Phan Giới thiệu sách Tác phẩm “Sử Việt – 12 khúc tráng ca” kể về 12 câu chuyện dựng nước và giữ nước thời phong kiến, được chọn lọc theo tính chất quan trọng và hùng tráng trong dòng chảy lịch sử Việt Nam. Tác phẩm kể lại các câu chuyện Sử Việt đầy hấp dẫn bằng một cách tiếp cận hoàn toàn mới, không phải như tiểu thuyết dã sử, nhưng cũng không phải là một tài liệu chuyên khảo khô khan. “Sử Việt – 12 khúc tráng ca” hệt như một cuốn phim li kì, với hàng loạt câu hỏi về các nghi án lịch sử, những tranh đoạt hoàng quyền trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Cuốn sách như một bản nhạc, khi thì dồn dập, khi thì bi ai, khi thì hùng tráng, khi thì trầm mặc. Những câu chuyện trập trùng xen kẽ như các khúc ca thăng trầm của dân tộc Việt Nam. Về tác giả Dũng Phan tên đầy đủ là Phan Trần Việt Dũng, anh sinh năm 1988, tuy còn khá trẻ nhưng anh là một người có kiến thức lịch sử khá sâu rộng. Các bài viết của anh cùng cuốn sách “Sử việt – 12 khúc tráng ca” được GS. Phan Huy Lê đánh giá rất cao. Review sách Cuốn sách nói về các trang sử trầm hùng bi tráng của dân tộc Việt Nam qua các triều đại dưới góc độ khảo cứu và phân tích thuyết phục, hợp lý, chân thực và hé mở nhiều chi tiết mới, những nhân vật chưa được bàn luận xứng đáng với vai trò của họ, phân tích nhiều góc độ, luận bàn đúng người đúng công trạng. Cuốn sách được chia làm 12 phần ứng với tên gọi 12 khúc tráng ca ở tên sách kể tổng quát về lịch sử Việt Nam giai đoạn phong kiến bắt đầu từ cuối thế kỷ IX gần cuối giai đoạn Bắc thuộc, thời điểm mà dòng họ Khúc với những Khúc Hạo, Khúc Thừa Dụ đem lại những thời kỳ tự chủ đầu tiên cho đất nước cho đến khi nhà Nguyễn sụp đổ ở thế kỷ XVIII kết thúc giai đoạn phong kiến Việt Nam. Cuốn sách cũng là những thước phim ghi lại những trận đánh oanh dũng, nhưng kế sách đánh giặc, và giải đáp những bí ẩn về chuyện hành quân thần tốc của hoàng đế Quang Trung, cách cắm cọc trên sông Bạch Đằng hay những địa danh bị bụi phủ mờ thành Bình Lỗ, đầm Thị Nại,… Ta cũng sẽ được quay lại ngàn năm xưa để không chỉ biết đến vị anh hùng Lý Thường Kiệt, Hưng Đạo Đại Vương- Trần Quốc Tuấn, thiên tài quân sự Quang Trung- Nguyễn Huệ hay những vị vua tiếng vang muôn đời như Lý Thái Tổ, Lê Thánh Tông mà còn nói đến những nhân vật quan trọng khác đã cùng tạo nên bản hùng ca có thăng trầm, lúc thì hùng tráng, lúc thì bi ai. Với mỗi khúc tráng ca sẽ kể tương ứng với 1 triều đại của phong kiến Việt Nam. Cuốn sách tập trung nói về các vấn đề đánh giá nhận định các giai đoạn Việt Nam, đồng thời đánh giá khách quan 1 số nhân vật quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Cuốn sách còn đưa ra các giả thiết lịch sử bao gồm cả việc kể lại những câu chuyện ít biết hoặc thường không được đề cập trong các cuốn sách lịch sử phổ thông cho học sinh. Với lối viết rất thoải mái trong ngôn từ, sử dụng văn phong của giới trẻ cùng với cách đặt vấn đề rất tự nhiên và cuốn hút, theo bản thân mình thấy tác giả đã khéo léo khi đưa vào cuốn sách những đánh giá nhận định lại công lao, tội trạng, khiếm khuyết của các triều đại lịch sử Việt Nam, đem lại cái nhìn công bằng hơn cho các độc giả mà không gây gò bó hay khô khan – điều mà các cuốn sách lịch sử thường xuyên mắc phải khiến độc giả không chuyên dễ bị nhàm chán. Cuốn sách sẽ kể cho bạn nghe rất nhiều câu chuyện về sử Việt, để rồi bạn sẽ thấy rằng sử ta cũng chẳng hề thua kém sử Tàu. Cuốn sách rất hay dành cho mọi đối tượng dù bạn là dân chuyên sử hay chỉ là đọc thường thức giải trí thì đều có thể chấp nhận đây là một cuốn sách gối đầu giường. Một điểm cộng nữa cho cuốn sách là tuy viết cho 1 giai đoạn dài lịch sử nhưng cuốn sách không quá dày, chính vì vậy mà không gây ra cảm giác ngại đọc như nhiều cuốn sử khác, rất thích hợp cho những người không có nhiều thời gian nhưng vẫn muốn biết về sử Việt tổng quan nhất. Một số phân đoạn hay trong cuốn sách “Đứng giữa tình thế hung hiểm như vậy, đặt bên sinh mệnh của bản thân và cái chí lớn chưa làm gì nên sự nghiệp, không thể chết vì một mối tình thời niên thiếu trong cuộc chiến chốn quan trường và chốn hậu cung, Lý Thường Kiệt phải lựa chọn, và ông đã lựa chọn cách đau đớn nhất trở thành hoạn quan”. “Trần Thủ Độ cũng không kém anh, để giữ vững cơ nghiệp cho nhà Trần, ông sẵn sàng nhổ cỏ tận gốc”……..Một lần Trần Thủ Độ thấy Huệ Tông nhỏ cỏ sau vườn, Thủ Độ nói “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu” Huệ Tông nói “Điều ngươi nói, ta hiểu rồi” Sau đó, Lý Huệ Tông tự tử ở sau vườn” “Thủy quân của các tàu buôn phương Tây rất tự hào với hỏa lực trên biển. Thế nhưng khi đụng trận, bị Nguyễn Huệ đánh cho “hồn xiêu, phách lạc”. Quân Tây Sơn với súng trường và hỏa hổ đánh bại ngay súng trường phương Tây trên biển, khiến cai cơ người Pháp Manuel Mạn Hòe chết trận. Năm ấy, Nguyễn Huệ 29 tuổi, hệt như một Alexander Đại đế của Hi Lạp cổ đại” Thực hiện ebook sách này dành tặng mẹ tôikích nếu nhận được sự góp ý chí tình của quý vị gần ũng Phan TP. Hồ Chí M inh, mùa xuân, 201 7 ĐKHÚC CA 1TIẾ NG NHẠC DẠO ĐẦ UDÒNG HỌ KHÚC, ĐẶT NỀ N MÓNG TỰ CHỦã bao giờ trên những trang sách lịch sử viết về thời kỳ Bắc thuộc, các bạn tự hỏi Vì sao chỉ có chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng là chấm dứt được 1 000 năm Bắc thuộc, trong khi các cuộc khởi nghĩa trước đó của Bà Trưng, Bà Triệu, của Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, của Phùng Hưng, hay của M ai Thúc Loan chỉ là những chiến thắng ban đầu gây tiếng vang và rồ i nhanh chóng bị dập tắt? Câu trả lời mấu chốt có liên quan đến một dòng họ quan trọng trong lịch sử dân tộc dòng họ 938, Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kể từ ngày ấy, quân phương Bắc không còn trở lại và đất nước ta chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc. Nhưng tại sao quân phương Bắc không còn trở lại để đánh Ngô Quyền nữa? Bởi vì họ đã nhìn thấy nước Nam như một quốc gia riêng biệt khó bề chế ngự. Chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng không phải là một cuộc khởi nghĩa đơn thuần như các cuộc khởi nghĩa trước đó, mà trận đánh này là cuộc chiến giữa hai vùng đất tự chủ vùng đất Giao Châu do người nước Nam quản lý và vùng đất Nam Hán của vua Lưu Nham phương Bắc. Khác với tính chất một cuộc khởi nghĩa vùng lên bột phát bởi sự cai trị hà khắc của kẻ cầm quyền, tính chất của trận đánh ở Bạch Đằng là sự ngăn chặn Nam Hán xâm chiếm trở lại An Nam. Những gì Ngô Quyền có hôm ấy không phải là một sự manh mún, nhỏ lẻ như Bà Trưng Bà Triệu... ngày nào mà là một chính quyền và quân đội rõ ràng. Chính quyền ấy đã được tạo nên từ cách đó hơn 30 năm, dướilớn lâu đời ở Hồng Châu. Khúc Thừa Dụ tính khoan hòa, hay thương người, được dân chúng suy tôn. Gặp thời buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một xứ, Thừa Dụ tự xưng là tiết độ sứ.” Như vậy, Khúc Thừa Dụ đã thực hiện một màn cướp chính quyền trong âm thầm và đẩy nhà Đường vào thế sự đã rồi, buộc phải công nhận tước vị của ông. Sự khôn khéo của Khúc Thừa Dụ nằm ở chỗ, ông không dựng cờ để gây sự chú ý mà âm thầm xây dựng một chính quyền của người Việt và cho người Việt. Ông đứng trên danh nghĩa là tiết độ sứ của nhà Đường, là người thuộc bộ máy đô hộ, nhưng phía sau lại làm công việc của một người giành độc lập. Đấy là chuyển quyền tự chủ dân tộc sang cho người Việt, một cách khéo tuệ của Khúc Thừa Dụ còn ở cái cách khiến cho nhà Đường phong hàm tước đồng bình chương sự cho ông. Rồi dùng chính chức tước ấy, ông phong cho con là Khúc Hạo chức vụ Tĩnh Hải hành quân tự mã quyền tri lưu hậu, tức là chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ thay thế nắm quyền hành tiết độ sứ khi cha mất đi. Ông muốn rằng, nếu một ngày mình tạ thế thì quyền lực vẫn trong tay người 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, người đời sau thương mến gọi ông là Khúc Tiên chủ, dù cho ông chưa hề xưng đế hay xưng vương. Con ông - Khúc Hạo - lên nắm quyền chức tiết độ sứ thay cha, và lúc này, Khúc Hạo chứng minh bản lĩnh của một người kế thừa xứng đáng. Khúc Hạo là một nhà cải cách lớn ngay từ thế kỷ X, một nhân tài trị quốc dường như đã bị bỏ quên và cần ghi công lại trong dòng chảy của lịch sử dân Khúc HạoLúc này, nhà Đường đã mất, Trung Quốc bước vào giai đoạn “Ngũ đại Thập quốc1”. Nhà Hậu Lương một lần nữa muốn quay trở lại thôn tính nước ta. Vua Hậu Lương là Chu Ôn tức Chu Toàn Trung phong cho Lưu Ẩn chức tiết độ phó sứ Quảng Châu, nhưng lại kiếm thêm Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ, như một cách gián tiếp cho phép Lưu Ẩn được quyền quay lại An Nam nắm quyền. Đứng trước tình thế nguy hiểm ấy, Khúc Hạo mềm mỏng xưng tôi với vua Hậu Lương, đưa vàng bạc qua thương thuyết. Ông đối ngoại khôn khéo và giữ yên được bờ cõi, tránhđược một cuộc can qua. Cùng với đó là đường hướng đối nội, Khúc Hạo tiến hành cải cách ở hai mặt hành chính và kinh tế để giúp nước Việt vững mạnh, nhằm đương đầu khi có chiến tranh, xác lập tự chủ lâu đến bây giờ, chúng ta đều nắm rõ, để một vương triều tồn tại lâu dài cần phải có sự gắn kết trong bộ máy hành chính cai trị từ trung ương đến địa phương. Vào thế kỷ X, Khúc Hạo đã nghĩ đến điều đó. Một chiến thắng ngoài mặt trận không thể giúp đất nước vững bền, nhưng một hệ thống hành chính kiện toàn có thể làm được điều Hạo chia cả nước thành đơn vị hành chính các cấp lộ, phủ, châu, giáp, xã. Thời thuộc Đường, dưới châu là hương, Khúc Hạo đổi hương là giáp. Mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc thu thuế. Theo sách An Nam chí nguyên, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp cả thảy bao gồm trước đó, tổng cộng trên cả nước ta có 314 giáp. Dưới giáp là xã, mỗi xã có xã quan, một chánh lệnh trưởng và một tá lệnh trưởng. Dưới xã là quận, tổng cộng, trình tự bộ máy thời họ Khúc tự chủ do ông cải cách là lộ - phủ - châu - giáp - xã - là lần đầu tiên trong lịch sử nước Nam có một cuộc cải cách sâu rộng đến như thế. Chính những cải cách gần dân và ở cấp cơ sở này sẽ là tiền đề để 30 năm sau, Ngô Quyền chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc một cách đường đường chính phải nhấn mạnh Ở bộ máy cải cách do Khúc Hạo đặt ra có một điểm đặc biệt quan trọng để sau này không chỉ giúp nước ta giành được độc lập, đứng lên chống lại sự xâm lược qua từng thời kỳ mà còn củng cố văn hóa nghìn năm của dân tộc này, đó là “văn hóa lũy tre làng”. Làng xã Việt Nam phía sau lũy tre đã quay tròn lại cùng nhau, kể cho nhau thuở Hồng Bàng, Văn Lang, Âu Lạc, đã nhắc nhở nhau và giữ gìn truyền thống ăn trầu, nhuộm răng, để 1000 năm mất nước vẫn không quên đi nguồn gốc đất tổ. Khi Khúc Hạo Cơ cấu phân khu xã làng và quận, ông đã gián tiếp thu gom lực lượng, chính thức hóa một nét Việt và bảo vệ mãi mãi truyền thống cách thứ hai của Khúc Hạo là kinh tế. Khúc Hạo chấm dứt tình trạng tô thuế, lao dịch và cống nạp nặng nề mà người Việt phải chịu đựng trong quá trình Bắc thuộc trước đó. Ông cho ban hành chính sách “bìnhcó phong thái trù mưu định kể quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, thật là bậc chúa hiền của nước Việt.”Những trang sử vẻ vang của dân tộc rồi đây sẽ lần lượt được kể lại với những chiến thắng và những công tích kỳ vĩ. Nhưng hậu nhân không bao giờ quên có một dòng họ Khúc thầm lặng đã xây nên một nền móng vững vàng, cho khúc ca tự chủ ngân lên vào năm 938 sau CA 2HÙNG CA TỰ CHỦNGÔ QUYỀ N - NGƯỜI ANH HÙNG CHẤMDỨT 1000 NĂM BẮC THUỘCgười ta gọi ngài là vị “ vua đứng đầu các vua” , Phan Bội Châu thì gọi ngài là “ vị Tổ trung hưng của Việt Nam”. Những mỹ từ ấy dành cho ngài không hề quá lời. Bởi vì ngài là Ngô Ngô Quyền lên ngôiNhà vua sinh năm 897, là con trai của Châu Mục Đường Lâm Ngô Mân. Đại Việt sử ký toàn thư chép “Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, trang mạo khác thường, có ba nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc.” Ở khúc ca đầu tiên, chúng ta đã nghe về Khúc Hạo. Dưới trướng Khúc Hạo, tại Ái Châu Thanh Hóa có một vị tướng tên là Dương Đình Nghệ, một người rất trung thành và yêu nước. Khi Lý Khắc Chính - tướng nhà Nam Hán - đánh bại họ Khúc và bắt Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ đã chiêu mộ về quanh mình hơn 3000 giả tử con nuôi, cũng có thể hiểu là gia khách, triệu tập hào kiệt khắp nơi để báo thù cho chủ. Ông có ba nha tướng quan trọng, mà cả ba người sau này đều có vai trò trong lịch sử Việt Nam. Một anh hùng, một kẻ phản bội và một người cha có một người con anh hùng. Đầu tiên là Ngô Quyền, hai là Kiềuchúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.” Theo Đại Việt sử ký toàn thư.Trí - dũng của Ngô Quyền không chỉ được thể hiện qua những câu nói trên, hay qua lời khen của đối thủ mà qua cả cách ngài đã chiến thắng ở lòng sông huyền thoại đó. Việc khảo sát và nghĩ ra kể cắm cọc nhọn trên sông, lợi dụng khi thủy triều lên che khuất cọc và thủy triều rút để hãm địch vào trận, nhằm phá tan chiến thuyền ở Bạch Đằng rồi đây sẽ trở thành bí kíp bảo vệ dân tộc suốt 1000 năm trước họa phương Trận Bạch ĐằngHầu hết trong mỗi chúng ta đều thuộc và nhớ diễn biến của trận chiến ở sông Bạch Đằng. Đấy là khi Ngô Quyền cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Đợi nước triều lên, nhà vua sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến và giả thua chạy để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn đưa quân ra đánh, liều chết chiến đấu đẩy quân Nam Hán lui về phía hàng Cọc. Đúng lúc ấy thì nước triều rút xuống rất gấp, khiến thuyền địch mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đây là Bạch Đằng giang, là địa danh đã trở thành dấu mốc tự hào và vinh quang của dân tộc. Bởi thế nếu chỉ nhắc về chiến công lẫy lừng ấy bằng những dòng đơn giản như vậy thì liệu có thể khiến hậu nhân nhớ về Bạch Đằng để khâm phục tài trí của cha ông? Bởi dòng sông này, chiến tích này quá vĩ đại nên ta cần đào sâu, đọc kỹ, truy xét tỉ mỉ. Ngô Quyền đã đóng cọc ở sống như thế nào? Ngô Quyền đã làm gì để có thể dụ được giặc vào đúng thời điểm thủy triều lên và rút đi như thế?2. Tính khoa họcSông Bạch Đằng là một con sông chảy giữa thị xã Quảng Yên Quảng Ninh và huyện Thủy Nguyên Hải Phòng, cách vịnh Hạ Long, cửa Lục khoảng 40 km, thuộc hệ thống sông Thái Bình. Đây là con đường thủy tốtnhất để đi vào Hà Nội Thăng Long ngày xưa từ miền Nam Trung Quốc. Đó là lý do vì sao sông Bạch Đằng luôn là địa điểm của các trận giao tranh. Khoảng 500 - 700 năm trước, nơi đây là một bộ phận của châu thổ sông Hồng. Vì thế lòng chính sông không bị xâm thực, hình phễu, sâu rộng như bây giờ mà nông hơn và hẹp hơn. Mô tả của Nguyễn Trãi trong Dư địa chí như sau “Sông Vân Cừ rộng hai dặm sáu mươi chín trượng, sâu năm thước.” Vì vậy việc tồn tại một trận địa cọc chính cắm ngang qua dòng chủ lưu sông Bạch Đằng vào giai đoạn 500 - 700 năm trước là phù hợp với thủy văn, địa chất lúc khoa học trong việc cắm cọc trên sông Bạch Đằng vào những năm 938 thực tế là trùng khớp với nguyên lý xây dựng của thời hiện đại, đó là hệ thống móng cọc và móng cừ tràm ở các công trình xây dựng bây giờ. Tất cả các loại cọc đóng từ thô sơ đến hiện đại đều dựa trên một nguyên lý khoa học căn bản là lực ma sát. Nếu chỉ đóng một Cọc thì khi có lực lớn từ trên tác động xuống, nó sẽ dễ bị tụt xuống dưới sình. Nhưng với số lượng cọc chi chít dính sát vào nhau, nhờ lực ma sát, chúng sẽ kết dính cứng lại với cát và bùn đất xung quanh, kể cả sình lầy đi chăng nữa, và qua đó tạo thành một khối cứng dưới lòng đất. Trí tuệ của ông cha chính là phát hiện ra lực ma sát Phương pháp đóng cọc trên sôngVào năm 2008, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Hải Phòng đã tổ chức hội thảo “Tìm hiểu kỹ thuật cắm cọc gỗ trên sông Bạch Đằng chống giặc ngoại xâm”. Các nhà nghiên cứu khoa học đã cùng nhau tìm hiểu phương pháp đóng cọc trên lòng sông. Theo đó, kỹ thuật cắm cọc trên lòng sông Bạch Đằng đã sử dụng kinh nghiệm cắm cọc đáy của dân chài ngày xưa “Dây giữ cọc, cọc giữ dây, dây giữ phương tiện thuyền.” Nghĩa là vấn đề cắm cọc sâu hay nông, cọc to hay nhỏ không quan trọng bằng sự chắc chắn của cọc nháng và dây nháng có vai trò đối với cọc gỗ như những chiếc neo đối với tàu thuyền, bè mảng. Thời điểm đóng cọc là đợi lúc thủy triều rút xuống, mực nước ở mức thấp thuật cắm cọc như sau Cọc lớn được thả xuống sông, đầu gốc được nhấn chìm một phần xuống mặt bùn, phần ngọn buộc một sợi dây để giữ và điều chỉnh cọc. Thân cọc được dựng theo phương thẳng đứng vớicủa quân Nam Hán phải lùi ra cửa sông. Những cọc nhọn nhô lên mặt sông trở thành bãi đá ngầm chọc thủng thuyền của giặc, khiến chúng va vào nhau, kẹt cứng ở đó như cá mắc cạn. Thuyền của Ngô Quyền vốn là thuyền nhỏ, rất linh động, lại nắm vững địa hình sông liền ào tới, luồn lách mà đánh vào. Phần còn lại, quá đơn giản để đoán biết kết thuật cắm cọc nhọn ngăn giặc phương Bắc đều là từ Ngô Quyền mà Thì Sĩ nhận định trong sách Việt sử tiêu án như sau “Trận đánh ở Bạch Đằng là cái căn bản khôi phục quốc thống đó. Sau này Đinh, Lê, Lý, Trần còn phải nhờ dư liệt ấy. Võ công hiển hách của Ngô Quyền, tiếng thơm nghìn đời, đâu có phải chỉ khoe khoang một lúc bấy giờ mà thôi.”3. Tiền Ngô VươngMùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng là vương, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô; dời đô tới Cổ Loa, như nhắc nhở về vong hồn dân tộc 1000 năm về trước thuở chưa mất nước. Từ đây, dân tộc ta chính thức chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc. Người không có miếu hiệu, cũng chẳng có thụy hiệu, con cháu đời sau vì quá yêu quý và ngưỡng mộ mà gọi là Tiền Ngô năm 944, Ngô Vương qua đời khi mới 47 tuổi, chỉ làm vua được 6 năm. Nhưng công tích để lại thì vô cùng rực rỡ. Sử gia Lê Văn Hưu khi biên soạn Đại Việt sử ký đã viết về ngài với sự ngưỡng mộ không giấu giếm “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy.”Còn sử gia Ngô Sĩ Liên thì viết trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau “Mưu tài đánh giỏi, làm nên công dựng lại cơ đồ, đứng đầu các vua.”Sử gia các thời đại đều nhắc về Ngô Vương với tình cảm và sự khâm phục. Hậu nhân nhắc về Ngô Quyền còn đầy lòng tự hào và biết ơn. Nguyễn Trãi khi đi qua cửa sông Bạch Đằng, đã có câu thơ tả về dòng sông ấy như sau“Quan hà bách nhị do thiên thiết, Hào kiệt công danh thử địa tằng.3” Nghĩa là “Cửa sông xung yếu do trời đặt, hai người chống cả trăm người, Những bậc anh hùng xưa kia từng lập công đất này.” Ngô Quyền và chiến thắng trên lòng sông Bạch Đằng năm 938 không chỉ mở ra giai đoạn độc lập lâu dài của dân tộc, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc mà còn dành tặng cho hậu nhân một bài học binh pháp để bảo vệ nền độc lập tự chủ trong suốt 1000 năm tiếp theo, đây là nghệ thuật mai phục và cắm cọc nhọn trên lòng sông lịch sử, hòng bảo vệ đất nước trong cơn nguy Trị nướcNăm 968, sau khi thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lấy tước hiệu là Đinh Tiên Hoàng đế. Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện “Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế” và “Vua mở nước, lập đô, đổi xưng Hoàng đế”. Ông đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. 3 năm sau, ông lấy niên hiệu là Thái ta hãy để ý ba việc làm ấy của Đinh Bộ Lĩnh. Thứ nhất là tước hiệu hoàng đế. Trong khúc ca về dòng họ Khúc, hẳn mọi người không quên họ Khúc chỉ xưng làm tiết độ sứ, tới Ngô Quyền thì xưng vương, sử cũ gọi là Ngô Vương. Nhưng tới vua Đinh thì ông đã xưng làm hoàng đế, Đại Thắng Minh Hoàng đế chính là tôn hiệu ngày mở nước của vị anh hùng Đinh Bộ Lĩnh. Chính từ đây, người đứng đầu nước Nam thực sự nhận về mình hai chữ “thiên tử” con trời như một lời khẳng định về độc lập và tự chủ của cả quốc gia. Từ sau “Tiên Hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh”, các đời Lê, Lý, Trần, Nguyễn không xưng vương hay tiết độ sứ nữa mà đều xưng hoàng đế như một dòng chính thống độc lập hẳn với phương Bắc, đã mở ra thời đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam, đẩy lui 1000 năm Bắc thuộc về phía sau dĩ vãng lịch thứ hai là tên nước Đại Cồ Việt. Thời Ngô, các vua xưng vương nhưng chưa có quốc hiệu, vẫn gọi theo tên thời thuộc Đường là Tĩnh Hải quân. Nhưng bây giờ, Đinh Tiên Hoàng đế đã đặt cho Việt Nam một cái tên là Đại Cồ Việt, ngài muốn khẳng định với phương Bắc đây là đất nước của người Việt chứ không phải của người Hán. Đây là đất Việt, không phải đất Tống. Ý nghĩa quốc hiệu Đại Cồ Việt chữ Hán 大瞿越 “Đại” 大 theo nghĩa chữ Hán là lớn, “Cồ” là âm Việt cổ của từ “Cự” hay “Cừ” 巨 cũng là lớn mạnh. Đinh Tiên Hoàng đế muốn ghép hai chữ để khẳng định nước Việt là nước lớn. Một cái tên gửi gắm rất nhiều hoài bão với dân cuối cùng cần chú ý là niên hiệu Thái Bình được đặt vào năm 970. Trước Đinh Tiên Hoàng đế, các vị vua Việt Nam đều lấy niên hiệu theo hoàng đế Trung Quốc. Việc tự đặt cho mình một niên hiệu riêng đã khẳng định bây giờ nước Nam là một nhà nước phong kiến tập quyền riêng với quân đội riêng, không còn phụ thuộc phương Bắc. Đi cùng niên hiệu Thái Bình chính là đồng tiền “Thái Bình hưng bảo”, được coi là đồng tiềnxưa nhất Việt Nam, được nhà Đinh đúc ra vào năm 970. Đồng tiền tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì lớn, góp phần khẳng định nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam không chỉ ở lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa mà còn ở lĩnh vực kinh việc làm lớn, mở ra lịch sử ngàn năm. Nhận xét về Đinh Tiên Hoàng đế, sử gia Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký viết “Có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết.” Còn sử gia Lê Tung soạn Việt giám thông khảo tổng luận thời vua Lê Tương Dực thì nhận định “Vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy.”Một điều cần lưu ý Nhà Đinh được dựng lên bằng máu và ly loạn nên Đinh Tiên Hoàng đế lập trật tự đất nước bằng một bàn tay sắt. Luật pháp dưới thời vua Đinh cực kỳ nghiêm khắc. Các trọng phạm sẽ bị ném vào vạc dầu sôi đặt trước cửa điện, hoặc làm thức ăn cho thú dữ ở ngự uyển. Những hình phạt tàn khốc đó đã gây một ấn tượng sâu đậm trong lòng những người muốn chống đối, qua đó bảo vệ được sự bình yên của một vương triều mới thành lập. Đi cùng với các hình phạt là việc duy trì quân đội thường trực, ông chia quân đội thành mười đạo, dưới sự thống lĩnh của Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn. Nhờ các biện pháp này, tình hình trong nước được ổn Cầm quânMột sự hiểu lầm như ở đầu câu chuyện đã nói, cái tên Đinh Bộ Lĩnh luôn được đặt cạnh Trần Hưng Đạo hay Quang Trung ấy là vì tên tuổi của ông luôn gắn với giai thoại “Cờ lau ra trận” và “Dẹp loạn cát cứ”. Chính hai võ lược này khiến ông được tôn vinh trên mặt trận cầm quân. Đinh Tiên Hoàng để không chỉ là một vị vua vĩ đại của dân tộc mà còn là một vị tướng trên lưng ngựa đánh Đông dẹp Bắc, một người vừa có tầm nhìn của hoàng đế vừa có cái xuất chúng của tướng cầm các bạn, những người đang đọc trang sách này, có dịp tới thăm lăng mộ của Đinh Tiên Hoàng đế ở Hoa Lư – Ninh Bình, sẽ cảm nhận tinh thần thượng võ của vua Đinh qua cách ông chọn nơi an nghỉ cuối cùng. Lăng của Tiên Hoàng nằm trên núi Mã Yên. Gọi là Mã Yên bởi vì đó là một thung lũng đá vôi hơi trũng, rộng và bằng phẳng, hai bên nhô cao và ở Dũng Phan viết nên tác phẩm Sử Việt 12 khúc tráng ca này khiến cho những con dân xứ Việt vốn thờ ơ với sử nhà có thêm một niềm hứng thú mới khi nhìn về quá khứ cha ông. Tôi không nhớ mình đã tốt nghiệp thời phổ thông với mấy điểm môn Sử, nhưng tôi chắc chắn một điều, mình vô cùng ám ảnh với môn học ấy. Những con số nhàm chán, những chiến dịch đánh nhau với thông điệp một chiều, chính nghĩa tất thắng, và sớm hay muộn, ngày nào thắng mà thôi. Lịch sử theo sách giáo khoa mà tôi biết, không có những chuyện thâm cung bí truyền, những âm mưu man rợ ít người biết, trước khi một thế lực nào đó binh biến và làm nên chiến thắng mà sử sách ghi lại bấy giờ. Mãi cho đến khi tôi tìm ra được vài trang sách sử khá hay. Trên facebook có 2 nhân vật khiến tôi phải thay đổi thái độ nhìn nhận lịch sử của mình. Một là anh Phạm Vĩnh Lộc xin lỗi nếu không gõ được tên gọi thực của anh, bởi vì qua facebook Loc Vinh Pham, tôi chỉ biết thông tin có chừng ấy. Anh Lộc viết lại lịch sử với góc nhìn hài hước mà tôi nghĩ là phải bật cười khi nhớ đến số lần trốn chạy của Nguyễn Ánh, nhà vua đầu tiên lập nên mảnh đất Việt Nam thống nhất ngày nay. Nhân vật thứ hai khiến tôi hứng thú hơn với lịch sử là fanpage The X File of History, với những bài học lịch sử mới mẻ, và cách nhìn nghiêm túc nhưng kèm theo những nhận định của người hậu thế, mà tiêu biểu ở đây là Dũng Phan, một trong những admin khởi đầu tạo nên fanpage ấy. Chừng ấy năm đọc lại lịch sử nước nhà, đủ khiến cho tôi hào hứng và vui vẻ hơn, ít ra thì tôi vẫn mù tịt con số về mốc thời gian ấn định chiến thắng Điện Biên Phủ, hay một vài địa danh lẫy lừng khác. Tuy nhiên tôi cũng biết được rằng, sử Việt cũng hấp dẫn không kém gì sử Trung Hoa, vốn ăn sâu trong máu người Việt nhờ những bộ phim chiếu trên truyền hình. Nếu bạn đọc cũng giống như tôi, hào hứng hơn khi nhìn nhận vụ việc Lý Công Uẩn lên ngôi không đơn giản chỉ là được mọi người suy tôn, hay vụ việc tương tự là Thập đạo tướng quân Lê Hoàn trở thành vị vua như thế nào, có êm thấm như sách sử giáo khoa chép lại? Hay thực ra, là một vụ cướp đoạt vương quyền đẫm máu dưới cái mác yên bình ở bề ngoài? Lịch sử sẽ có nhìn nhận lại khách quan về con người Nguyễn Ánh, vị vua Gia Long mà ngày xưa tôi được học là “cõng rắn cắn gà nhà”, nay lại được xem là một vị vua có một không hai trong lịch sử, toàn bại trận nhưng cuối cùng lại thu non sông về một mối. Lịch sử cũng chỉ ra rằng vị vua Lê Long Đĩnh thực ra có hoang dâm vô độ đến mức “ngoạ triều” như các sách đời sau bêu xấu? Thực tế là như thế nào? Hậu thế Dũng Phan nhận định như thế có hợp tình hợp lý? Nếu bạn cũng bắt đầu hứng thú với những câu chuyện lịch sử này, thì Sử Việt 12 khúc tráng ca sẽ là cuốn sách hoàn hảo cho những thắc mắc kể trên. Sử Việt 12 khúc tráng ca Cuốn sử Việt đầu tiên được viết bởi một người không thuộc chuyên ngành sử Dũng Phan có nghề nghiệp chính là Kĩ sư xây dựng, là nhà báo, cộng tác viên của Sài Gòn giải phóng, Thể thao… Anh kĩ sư này mê lịch sử từ rất nhỏ và may mắn giữ được đam mê ấy cho đến bây giờ. Anh viết nên cuốn sách này, mặc dù khởi đầu gấp gáp và có nhiều hạt sạn trong khâu in ấn và số liệu lịch sử. Tuy nhiên không thể phủ nhận cuốn sách này là cuốn sử hiếm hoi của nước nhà trình bày Lịch sử phong kiến Việt Nam bằng lối viết dẫn chuyện vô cùng hợp lý và thú vị, chí ít thì không nhàm chán vì những cột mốc và con số. Điều đặc biệt hơn, các sử gia Việt sẽ nhìn nhận như thế nào khi một cuốn sách như vậy ra đời bởi một người không thuộc chuyên ngành sử? Hy vọng cuốn sách sẽ là cú hích để những nhà nghiên cứu chuyên tâm ra đời những cuốn sử khác với chất lượng tốt hơn, lối trình bày hấp dẫn hơn và có cái nhìn khách quan của người hậu thế, thay vì lối chép lại vốn đã là sai lệch lớn bởi lịch sử được viết lại bởi người chiến thắng và mang nhiều ý nghĩa tuyên truyền chính trị hơn. Thay cho lời kết Sử Việt 12 khúc tráng ca hành văn theo lối chương hồi, hệt như một cuốn phim ly kỳ, là “The X file of History” với hàng loạt các vấn đề được khơi mào từ những nghi án của lịch sử, những tranh đoạt hoàng quyền trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Tác phẩm là sự kết hợp của những tư liệu đã được kiểm chứng xen kẽ với những nhận định tâm tư của tác giả Dũng Phan, mặc dù còn một vài hạt sạn nhỏ, nhưng vẫn xứng đáng nhận được lời ngợi ca và tán dương nhiệt liệt từ đông đảo bạn đọc yêu sử Việt, nhất là những bạn trẻ yêu sách với tư tưởng cởi mở hơn trong thời đại mới. [Bảo Ninh] Nỗi buồn chiến tranh [Phùng Quán] Tuổi thơ dữ dội [Nguyễn Xuân Khánh] Tiểu thuyết Hồ Quý Ly Nếu bạn thấy bài viết này hay, xin ủng hộ team bằng cách dành thêm một giây để click vào quảng cáo. Chỉ 1s thôi, nhưng là cách tuyệt vời để duy trì blog mãi mãi

sử việt 12 khúc tráng ca